Tính đến nay vẫn chưa có ai lật đổ kỷ lục của thiên tài văn học người Anh - Rudyard Kipling, người đã nắm giữ danh hiệu "Người trẻ tuổi nhất nhận giải Nobel văn học". Kipling đã mang về giải thưởng danh giá này vào năm 1907, khi ông mới chỉ 41 tuổi. Joseph Rudyard Kipling, với tài năng và lòng đam mê sáng tác, đã khắc sâu những dấu ấn không thể phai trong lòng người hâm mộ qua những tác phẩm văn học đầy sức sáng tạo và độc đáo. Cùng Blog sách hay của Nhà sách trực tuyến Pibook.vn tìm hiểu về chủ nhân trẻ tuổi nhất của Nobel văn học này nhé!
“Một thiên tài văn chương toàn diện và vĩ đại” – nhận xét ấy của Viện Hàn lâm Thụy Điển khi trao giải Nobel Văn học cho Joseph Rudyard Kipling vào năm 1907 không hề thái quá. Khi mới vừa tròn 41 tuổi, Kipling đã cho ra đời tận 20 tập sách, trong đó có 4 tiểu thuyết và hàng trăm bài thơ, bài báo, và tập ký, ẩn chứa một tài năng văn học độc đáo và một khả năng quan sát tinh tế.
R.Kipling không chỉ là một nhà thơ xuất sắc, mà còn là một nhà báo, nhà văn và tiểu thuyết gia tài danh. Sinh ra trong một gia đình nghệ sĩ ở Ấn Độ, ông đã bộc lộ tư chất thiên tài từ rất sớm, khi sáng tác trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật từ thơ, văn, kịch tới báo viết. Tác phẩm của ông có chất liệu đa dạng, từ tình yêu quê hương, đất nước, yêu nhân loại, ca ngợi thiên nhiên đến các sáng tác khoa học viễn tưởng đầy hấp dẫn, đã chinh phục được độc giả khắp thế giới.
Với những tác phẩm viễn tưởng nổi tiếng như "Chuyện rừng xanh", "Kim" và "Chuyện là như thế" cùng những tác phẩm thơ kinh điển như "Mandalay", "Gunga Din", "Gánh nặng người da trắng", và "Nếu" - bài thơ được bình chọn hay nhất trong lịch sử thi ca nước Anh, R.Kipling đã ghi dấu ấn không thể phủ nhận trong văn học thế giới.
Kipling đã từng được vinh danh là một trong những nhà văn Anh Quốc nổi tiếng nhất vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ông đã được trao bằng danh dự và phần thưởng của nhiều trường đại học danh tiếng và giải Huy chương Vàng Văn học Hoàng gia Anh. Tuy nhiên, ông đã từ chối mọi danh hiệu và chọn sống lặng lẽ, tránh xa công chúng, không để tâm tới những lời phê bình thù địch. Cuối đời, ông đã chọn một làng quê yên tĩnh ở Sussex, Anh để sống, nhưng tác phẩm của ông vẫn còn đó, mãi mãi là một phần quan trọng của di sản văn hóa thế giới.
Những dòng thơ "Nếu", được ông sáng tác vào năm 1895 và lần đầu tiên xuất hiện trên The American Magazine vào tháng 10/1910, không chỉ làm rung động lòng người, mà còn trở thành một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Tuy nhiên, trong cuộc đời ông, có một bi kịch không thể quên: việc mất đi hai người con yêu dấu. Điều này đã tạo nên một dấu ấn trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Kipling. Con gái ông mất trong một chuyến di cư đến Mỹ do bệnh viêm phổi. Con trai ông, Jack Kipling, thì hy sinh trong một cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất trên đất Pháp năm 1915. Trải qua những nỗi đau mất mát, bài thơ "Nếu" của Kipling đã chiếm được tình cảm của độc giả, trở thành một tác phẩm biểu tượng của niềm tin và khát vọng.
Bài thơ "Nếu" đã tạo ra một làn sóng lớn trong văn hóa Anh, được trích dẫn trong nhiều tiểu thuyết và phim nổi tiếng. Những thông điệp trong bài thơ đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều người, trở thành những lời nhắc nhở về quan niệm sống.
Bài thơ này cũng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau, bởi những nhân vật nổi tiếng như Aung San Suu Kyi - người từng đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1991, và nhà văn Ivo Andric - người đoạt giải Nobel văn học năm 1961. Ở Việt Nam, bài thơ này đã được dịch và giới thiệu đến bạn đọc qua nhiều phiên bản khác nhau.
Kipling đã dùng thơ văn của mình để phản ánh cuộc sống của người lính và nghĩa vụ của họ đối với Đế quốc Anh, điều này đã tạo nên những tranh cãi. Tuy nhiên, với sức mạnh và tầm ảnh hưởng của mình, không thể phủ nhận rằng Kipling là một nhà văn vĩ đại, xứng đáng với giải Nobel.
NẾU
Nếu con có thể bình tâm khi mà tất cả
Hết thảy kinh hoàng và đổ lỗi cho con
Nếu con vẫn vững tin khi mọi người nghi kỵ
Mặc ai đó không tin nhưng con vẫn vững lòng
Nếu con biết đợi chờ và kiên nhẫn chờ trông
Không lấy điều dối gian đáp lại điều gian dối
Hoặc bị căm ghét mà không căm ghét lại
Không nói những lời khôn, không ra vẻ thánh thần.
Nếu con mơ ước mà không để ước mơ làm chủ đời con
Nếu con có thể suy tư mà không lấy nó làm mục đích
Nếu cả Thành công, Thất bại trên đường đời con gặp
Mà vẫn như nhau - đối xử một tấm lòng
Nếu con biết nghe sự thật những lời của con
Bị kẻ bất lương làm bẫy lừa kẻ dại
Hoặc nhìn đời con đổ vỡ, đành làm lại
Và con cúi xuống dựng nên với công cụ đã mòn.
Nếu con dám đem những đồng vốn của mình
Đổ hết vào một trận ăn thua úp ngửa
Đành làm lại từ đầu vì đã mất tất cả
Mất mát của mình không một chút thở than
Nếu con ép được con tim, thớ thịt đường gân
Phục vụ cho mình để giành mục đích
Và cố níu giữ, dù chẳng còn sức lực
Nhưng ý chí vẫn đòi: "Hãy giữ vững lòng tin!".
Nếu con giữ tư cách khi nói chuyện với mọi người
Hay khi ngồi với Vua - thường dân không gián đoạn
Nếu không để thiệt cho mình - dù với thù hay bạn
Không còn để ai nợ nần hay còn nợ gì ai
Nếu mỗi phút giây con có được trong đời
Không để phí hoài mà luôn luôn đặt trên đường chạy
Thì thế giới này sẽ là của con, cùng tất cả những gì trong đấy
Và - quan trọng hơn - con trai, con là một Con người!
Tổng hợp: Thanh Nhã
Nguồn tham khảo: Báo CAND